Kinh tế chia sẻ - Thực trạng và các đề xuất đối với Việt Nam

05/08/2021, 17:08

Những năm gần đây mô hình Kinh tế chia sẻ (SE) đã mang lại nhiều thay đổi trong đời sống xã hội tại nước ta. Mô hình kinh tế chia sẻ đang phát triển nhanh chóng cùng với sự phổ biến của smartphone tại một số đô thị những năm gần đây.

Nhận thức được tầm quan trọng của mô hình kinh tế này trong nền kinh tế quốc dân, tháng 08/2019 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 999/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, với mục tiêu tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo, sử dụng công nghệ số…

Thuật ngữ ngữ “Kinh tế chia sẻ - sharing economy” đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Nó được manh nha vào năm 1995 tại Mỹ với mô hình ban đầu có tính chất "chia sẻ ngang hàng" nhưng ch rõ rệt. Mô hình kinh doanh này thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2008, khiến người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với bối cảnh khó khăn. Mô hình SE khởi đầu bằng dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc tìm người,... và nó đã giúp cho nhiều người có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền quảng cáo. Thuật ngữ Kinh tế chia sẻ còn được gọi theo nhiều tên khác nhau như: kinh tế cộng tác, kinh tế theo cầu…… tuy nhiên nhìn chung, tất cả các tên gọi này của mô hình SE đều có bản chất là kết nối để những người tiêu dùng có thể tận dụng nguồn lực dư thừa của nhau - được đánh giá là mô hình đem lại giá trị kinh tế cao, tác động không nhỏ đến người tiêu dùng, cũng như những doanh nghiệp kinh doanh kiểu truyền thống.

Minh họa, nguồn Internet

Thành tựu của kinh tế chia sẻ tại Việt Nam

Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á cho phép thí điểm mô hình kinh doanh ứng dụng công nghệ kết nối vận tải cho Uber và Grab, bắt đầu từ năm 2014. Tiếp nối mô hình kinh doanh vận tải này, nhiều dịch vụ ứng dụng công nghệ số như dịch vụ chia sẻ phòng (Airbnb); dịch vụ du lịch (Triip.me); dịch vụ sửa chữa điện tử, điện lạnh, xây dựng, Rada; dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ cho vay ngang hàng (Huydong.com, tima.vn, lendbiz.vn),... về quy mô hoạt động, mô hình SE đã phát triển nhanh chóng mấy năm gần đây. 

Thứ nhất, tác động tới huy động nguồn lực xã hội cho phát triển kinh tế thông qua huy động phương tiện, tài sản nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển; Đồng thời thúc đẩy và thu hút đầu tư mới vào kinh doanh theo mô hình Kinh tế chia sẻ, đặc biệt vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Trong lĩnh vực vận tải ở Việt Nam, với sự phát triển của loại hình dịch vụ vận tải trực tuyến (Grab, Uber, Go-Viet, Be, MyGo…)đã huy động được một lượng khá lớn lao động, ô tô, xe máy của cá nhân, đơn vị kinh doanh tham gia vào cung cấp dịch vụ vận tải. Theo Bộ Giao thông vận tải, trong giai đoạn 2016-2018 cả nước đã có 866 đơn vị vận tải với 36.809 phương tiện và thu hút hàng chục ngàn lao động tham gia vận tải hành khách theo hợp đồng (Grap). Trong lĩnh vực lưu trú du lịch, ước tính đến tháng 1/2019 đã huy động được khoảng 18.230 cơ sở lưu trú tham gia mô hình Airbnb ở Việt Nam và còn nhiều cơ sở kinh doanh chia sẻ phòng ở, phòng làm việc đăng ký ở các ứng dụng khác.

Thứ hai, thúc đẩy kinh doanh, mở rộng và phát triển thị trường thông qua mở rộng và tăng nhanh các giao dịch kinh tế trên thị trường, bổ sung kênh kinh doanh mới cùng với kinh doanh theo mô hình truyền thống; Tạo cơ hội kinh doanh, tăng số lượng chủ thể tham gia thị trường trong nền kinh tế; Đa dạng và tăng chủng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, cung cấp và đưa ra nhiều hơn các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường; Mở rộng phạm vi không gian cho thị trường hàng hóa, dịch vụ nhờ các giao dịch xuyên biên giới. Theo Báo cáo nghiên cứu năm 2019 của Google, Temasek Holdings và Bain&Co, quy mô thị trường gọi xe và giao đồ ăn trực tuyến tại Việt Nam đạt doanh thu 1,1 tỉ USD vào năm 2019, tăng hơn 5 lần so với năm 2015 (0,2 tỉ USD), và dự báo sẽ đạt 4 tỉ USD vào năm 2025. Điều đó cho thấy tiềm năng của mô hình kinh doanh này ở Việt Nam còn rất lớn. Trên thị trường dịch vụ chia sẻ nhà ở và phòng ở, Airbnb đã mở rộng quy mô thị trường từ 1.000 phòng cho thuê vào năm 2015 và chỉ tập trung ở các thành phố lớn lên 40.800 phòng vào tháng 1/2019 ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Qua nền tảng Rada (hệ thống kết nối người tiêu dùng với các nhà cung cấp dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình…) chỉ sau 1 năm từ tháng 4/2016 đến tháng 7/2017 đã có hơn 20.000 giao dịch thành công với 56.000 khách hàng, hơn 1000 nhà cung cấp và 3.500 thợ/đơn vị cung cấp. Theo khảo sát giữa Facebook và Morning Consult tại Việt Nam, cho thấy 77% doanh nghiệp vừa và nhỏ trên Facebook cho biết họ đã tăng doanh số bán hàng nhờ vào nền tảng này; 76% doanh nghiệp vừa và nhỏ trên Facebook cho biết họ có thể tuyển dụng thêm nhân viên do có sự tăng trưởng nhu cầu kể từ khi gia nhập nền tảng này.

Thứ ba, thúc đẩy cạnh tranh và tăng tính minh bạch của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế, nâng cao hiệu suất của thị trường một số ngành sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế. Trên thị trường dịch vụ vận tải, từ khi Grab Taxi (nay là Grab) và các nền tảng kết nối khác (như Live Taxi, Taxi Chiều về, Uber, Easy Taxi) tham gia thị trường vận tải hành khách đường bộ, thị trường dịch vụ này đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt nhất là khi có nhiều nhà cung cấp dịch vụ mới như VATO, Be, Fastgo, Uber, Go-Jet Việt Nam, Gonow của Viettel…,

Thứ tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Phát triển các loại hình kinh tế chia sẻ góp phần mang lại thu nhập và tăng thu nhập của dân cư, góp phần tăng tiết kiệm nội địa, tăng tích lũy tài sản, tạo nguồn vốn mới cho tăng đầu tư trong nền kinh tế. Chẳng hạn, kết nối và tham gia mạng lưới qua nền tảng Grab, không chỉ mang lại thu nhập cho trên 100 nghìn tài xế xe máy, mà còn mang lại thu nhập cho hàng nghìn chủ cửa hàng đồ ăn, đồ uống, bán hàng tiêu dùng online….Kinh tế chia sẻ mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế nhờ tiết kiệm được nguồn lực do người tiêu dùng loại bỏ được nhu cầu “sở hữu” và chia sẻ mức phí sử dụng giữa những người có nhu cầu sử dụng sản phẩm hay dịch vụ, qua đó góp phần vào tăng trưởng và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ, về cơ bản là dựa trên các nền tảng kết nối, các sàn giao dịch ứng dụng công nghệ 4.0, hoạt động giao dịch trực tuyến, hiệu suất phân phối tài nguyên cao hơn kinh tế truyền thống, giúp giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã hội. Do vậy, hoạt động của các mô hình kinh tế chia sẻ không chỉ toàn dụng mà còn sử dụng hiệu quả các yếu tố nguồn lực của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế.
Những khó khăn, hạn chế khi phát triển mô hình kinh tế chia sẻ hiện nay

Bên cạnh những thành tựu to lớn, kinh tế chia sẻ tại Việt Nam hiện nay cũng bộc lộ những hạn chế công tác quản lý nhà nước, khiến các cơ quan này khá lúng túng trong việc xác định bản chất và cách thức vận hành, quản lý.

Thứ nhất, cạnh tranh không công bằng giữa các loại hình kinh doanh truyền thống với các loại hình kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ, nảy sinh bất cập do môi trường pháp lý chưa hoàn thiện và do hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có đầy đủ quy định pháp lý đối với mô hình kinh tế chia sẻ, khung pháp lý về hoạt động kinh doanh vẫn là các quy định đối với các mô hình kinh doanh truyền thống, chưa điều chỉnh về cơ bản các hoạt động kinh tế chia sẻ. Việc cấp giấy phép hoạt động đối với các mô hình kinh doanh chia sẻ còn vướng mắc do một số loại hình không nằm trong danh mục ngành nghề kinh doanh hoặc chưa xác định được ngành nghề kinh doanh và gây ra nhiều tranh luận. Các quy định pháp lý về tài sản, cũng chưa nhận định rạch ròi giữa tài sản dư thừa và tài sản dùng để kinh doanh. Các quy định về chỉ tiêu thống kê để quan sát hoạt động kinh tế chia sẻ, thu thập số liệu thống kê chính thức về kinh tế chia sẻ phục vụ quản lý nhà nước về kinh tế chia sẻ cũng chưa được xây dựng chi tiết và thực hiện.

Thứ hai, nảy sinh xung đột lợi ích trong xã hội do kinh tế chia sẻ, cạnh tranh giành thị phần của khu vực kinh tế truyền thống trên cùng lĩnh vực kinh doanh, gây ra mất việc làm ở khu vực kinh tế truyền thống và lãng phí tài sản đã đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống, gia tăng bất bình đẳng trong xã hội.

Mô hình kinh tế chia sẻ có xu hướng phá vỡ kết cấu của kinh tế truyền thống và gây ra xung đột lợi ích với các ngành nghề kinh doanh truyền thống. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ khi đã chiếm được thị phần đáng kể và tạo lập được thương hiệu có sức cạnh tranh cao trên thị trường bằng cách sử dụng nguồn vốn lớn huy động được để trợ giá, tạo ra lợi thế cạnh tranh, sẽ gây bất bình đẳng đối với các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống.

Thứ ba, một số sản phẩm có thể bị lũng đoạn bởi doahh nghiệp hoạt động theo mô hình kinh tế chia sẻ. Khi Nhà nước chưa có chính sách nhất quán và khung pháp lý đầy đủ đối với các nền tảng kỹ thuật số. Một đặc trưng của mô hình kinh tế chia sẻ là sự xuất hiện của nền tảng kết nối, sử dụng công nghệ kỹ thuật số và luôn luôn đổi mới công nghệ để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Các nền tảng số có vai trò then chốt tạo điều kiện và điều phối các hoạt động của doanh nghiệp. Khi kinh tế chia sẻ phát triển và có lợi thế cạnh tranh chiếm giữ thị phần lớn trên thị trường một số ngành sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp là nền tảng trong các mô hình kinh doanh chia sẻ sẽ có thể thôn tính và lũng đoạn thị trường khi kinh doanh với mức giá thấp so với giá thành để lôi kéo người tiêu dùng và tiến tới độc quyền sau khi loại các đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức truyền thống. Nguy cơ đó tăng lên khi thị trường một số ngành sản phẩm có nhiều doanh nghiệp nền tảng theo mô hình với nền tảng tập trung (bản thân nền tảng sở hữu tài sản cung cấp dịch vụ với giá tiêu chuẩn do nền tảng đưa ra). Nguy cơ này có thể được kiềm chế, kiểm soát nếu Nhà nước có chính sách và cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ “quyền lực” của các nền tảng trên thị trường từng ngành sản phẩm.Đây đang là một thách thức đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.

Thứ tư, nguy cơ bị các tập đoàn đa quốc gia thâu tóm các doanh nghiệp trong nước, lũng đoạn và chi phối thị trường một số sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam. Hiện nay, đang có xu hướng các tập đoàn lớn của nước ngoài với ưu thế về vốn và công nghệ đẩy mạnh mua lại cổ phần chi phối tại các công ty thuộc loại hình kinh tế chia sẻ của Việt Nam. Thậm chí, các tập đoàn nước ngoài chấp nhận lỗ trong ngắn hạn để chiếm lĩnh thị phần tại Việt Nam. Nếu Nhà nước ta không sớm ban hành và triển khai chiến lược, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước thì có thể dẫn đến bị các doanh nghiệp lớn của nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia chi phối hoàn toàn thị trường kinh tế chia sẻ trong nước, lũng đoạn thị trường một số ngành sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong nước. Trên thực tế, thị phần của mô hình kinh tế chia sẻ trên thị trường một số ngành sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam hiện nay chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp nền tảng kết nối chi phối (ví dụ: Grab Car, Fastgo trên thị trường dịch vụ vận tải trực tuyến; Airbnb, Expedia trên thị trường dịch vụ chia sẻ phòng ở…). Trong khi đó, hệ thống pháp luật lại không theo kịp diễn biến này trên thị trường trong nước, đang để ngỏ nhiều khoảng trống pháp luật. Thậm chí, một số lĩnh vực đã có quy định pháp luật nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng để các doanh nghiệp nước ngoài khai thác, gây bất lợi cho thị trường trong nước.

Thứ năm, Rủi ro về công nghệ, rủi ro trong giao dịch thị trường trên môi trường “ảo” và rủi ro về rò rỉ thông tin của các bên tham gia giao dịch thị trường. Trong mô hình SE, các giao dịch của các chủ thể trên thị trường thường được thực hiện và kết nối qua mạng internet, dựa trên hạ tầng viễn thông, hạ tầng mạng di động. Các nền tảng online, công nghệ mới là phương thức kết nối và chia sẻ, các nền tảng này đều dựa vào internet được kết nối nhiều hơn vào sự tin tưởng, tin cậy là điều kiện để phát triển kinh tế chia sẻ. Tuy nhiên, nước ta đang có những hạn chế lớn như các nền tảng điện toán đám mây, trung tâm dữ liệu truy cập, các dịch vụ trực tuyến trong nước phát triển còn hạn chế cả về công nghệ và quy mô; sự cạnh tranh khốc liệt của các nền tảng lớn trên thế giới trong khi hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới ít bị quản lý bởi hành lang pháp lý trong nước; việc sử dụng dịch vụ trực tuyến ở nước ngoài là chính đang tiềm ẩn những rủi ro và đặt ra thách thức rất lớn đối với VN về phát triển công nghệ và bảo đảm hạ tầng mạng Internet đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế chia sẻ trong thời gian tới.

Một số đề xuất

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan, quy định rõ trách nhiệm giữa các bên trong nền kinh tế chia sẻ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý đối với mô hình kinh tế chia sẻ.

Thứ hai, nghiên cứu rà soát các quy định pháp luật hiện hành về đầu tư liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài hoặc có nguồn gốc từ nước ngoài là bên cung cấp nền tảng kết nối và hoạt động theo mô hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam để xác định lỗ hổng pháp lý và bổ sung (nếu cần thiết).

Thứ ba, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung khổ luật pháp, chính sách về tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chia sẻ và doanh nghiệp kinh doanh truyền thống, giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh chia sẻ trên thị trường trong nước.

Thứ tư, có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp truyền thống chuyển đổi hình thức kinh doanh; giải quyết các vấn đề nảy sinh về lao động, việc làm, an sinh xã hội của khu vực kinh doanh truyền thống khi bị thu hẹp thị phần trong cạnh tranh với các loại hình kinh doanh chia sẻ, giảm thiểu các xung đột xã hội có thể nảy sinh.

Thứ năm, chủ động giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước-Thị trường -Xã hội trong thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ.

Danh mục tài liệu tham khảo

[1] Arun Sundarajan, Giáo trình, Nền kinh tế chia sẻ, Nhà xuất bản trẻ

[2] Bộ kế hoạch và đầu tư, Báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ chính tới nền kinh tế

[3] Quyết định 999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ

[4] https://tapchitaichinh.vn

[5] http://thoibaotaichinhvietnam.vn/

 

TS. Phạm Kim Thư – Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị

Email – Thuphamkim@gmail.com

TS Vũ Thị Dung – UBND Tỉnh Thái Bình

Email: thuydungtbu@gmail.com

Theo Tạp chí Khoa học Quản lý và Công nghệ