Tìm hiểu pháp luật Liên minh châu Âu về quyền con người và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam

07/09/2023, 17:21

Liên minh châu Âu (EU) luôn dẫn đầu trong việc bảo đảm quyền con người. Rất nhiều đạo luật của EU đưa ra thể hiện được sự chi tiết, tỉ mỉ. Tuy nhiên, cam kết của châu Âu có phần bị đe dọa bởi nhiều yếu tố tác động về biến động chính trị, xã hội. Châu Âu đối mặt với nhiều đòi hỏi của quy định pháp luật, vì thế một lần nữa cần được sự đồng thuận, thống nhất của các nước trong Liên minh.

Ảnh minh họa.

1. Những quy định pháp luật quốc tế về quyền con người ở Liên minh châu Âu

Trong luật quốc tế, quyền con người có các đặc trưng là một thể thống nhất, được xác định bằng những quyền năng, chuẩn mực cụ thể, mang tính phổ cập và có sự thống nhất biện chứng giữa đặc tính dân tộc với đặc tính nhân loại, giữa quyền cá nhân và quyền tập thể, giữa quyền con người và quyền công dân. Mang bản chất là những quyền tự nhiên, vốn có, quyền con người là giá trị chung, phổ biến đối với mọi xã hội, quốc gia, dân tộc và gắn với các điều kiện của quan hệ quốc tế. Còn bản chất xã hội làm cho quyền con người phù hợp với đặc thù về lịch sử, chế độ chính tri, đặc trưng văn hoá, truyền thống dân tộc và gắn với điều kiện, sự phát triển của kinh tế, văn hoá, xã hội tại mỗi quốc gia.

Việc phân loại quyền con người trong luật quốc tế có thể căn cứ vào một số tiêu chí nhất định như: Tiêu chí chủ thể quyền (cá nhân, nhóm, tập thể); tính chất quyền (quyền tự do, bình đẳng, dân chủ, quyền phát triển); nội dung quyền (quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá). Việc phân loại quyền cơ bản của con người theo các tiêu chí nêu trên có ý nghĩa tương đối, vì bản chất của quyền con người là thống nhất, không thể bị chia cắt. Trong các văn kiện pháp lý quốc tế, việc hình thành khái niệm các nhóm quyền dân sự, chính trị hay kinh tế, xã hội, văn hoá phản ánh chung nhất sự nhận thức cũng như cuộc đấu tranh giải phóng con người qua các thời đại và thời kỳ phát triển của nhân loại nói chung và ở từng quốc gia, dân tộc nói riêng.

Ở góc độ pháp lý, quyền con người được bắt đầu từ môi trường quốc gia, trước khi cộng đồng quốc tế có thể thống nhất với nhau về những giá trị, chuẩn mực, quy định hay nguyên tắc chung để điều chỉnh cách thức ứng xử của các quốc gia đối với công dân của nước đó và cả công dân của các nước khác. Các chuẩn mực về quyền con người nhìn từ góc độ quốc gia hay quốc tế đều nhằm hạn chế sự tự do xâm phạm quyền con người của nhà nước trong cả hai lĩnh vực các quan hệ trong nội bộ quốc gia và các quan hệ quốc tế. Trong khi đó, sự phân loại các nhóm quyền theo chủ thể, tính chất hay nội dung quyền có tính chất để xác định hay nhận diện quyền con người, với ý nghĩa là những quyền năng cụ thể, theo các tiêu chí hay chuẩn mực nhất định, để có cơ chế điều chỉnh, giám sát, điều phối các hoạt động liên quan đến việc bảo vệ, phát triển quyền con người ở những quy mô và cấp độ khác nhau.

Năm 2019, một liên minh gồm các tổ chức xã hội dân sự của Uganda và Pháp đã trở thành những bên khiếu nại đầu tiên, kiện một tập đoàn xuyên quốc gia theo luật cảnh giác năm 2017 của Pháp. Nhóm này lập luận rằng tập đoàn dầu mỏ khổng lồ của Pháp, TotalEnergies, đã không tiến hành thẩm định về tác động của các hoạt động khoan dầu của mình ở Uganda, dẫn đến vi phạm nhân quyền và môi trường nghiêm trọng. Ngày 15/12/2021, Tòa án Tối cao của Pháp đã đưa ra một phán quyết quan trọng và đưa đến chiến thắng cho liên minh này. Kết thúc nhiều năm tranh cãi về thủ tục, Tòa án đã phán quyết rằng nội dung vụ việc nên được xét xử tại Tòa án dân sự theo luật năm 2017; chứ không phải tại Tòa án thương mại, như Tập đoàn Total đã lập luận. Do đó, Tập đoàn Total có thể trở thành công ty châu Âu đầu tiên bị phán quyết là đã thực hiện các bước không phù hợp để bảo đảm rằng các hành vi vi phạm nhân quyền không xảy ra ở bất kỳ đâu trong chuỗi giá trị và quan hệ đối tác của mình [1].

Phán quyết được đưa ra vào thời điểm thích hợp cho nhiệm kỳ chủ tịch của Pháp trong Hội đồng Liên minh Châu Âu (EU), như một phần trong chương trình của cơ quan này; nhằm mục đích cải thiện quản trị doanh nghiệp xã hội và môi trường của EU. Nhiều công ty đã và đang làm việc để bảo đảm các hoạt động kinh doanh của họ phù hợp với hướng dẫn của Liên hợp quốc và OECD về nhân quyền và hành vi có trách nhiệm. Tuy nhiên, Luật Thẩm định nhân quyền bắt buộc (HRDD) sẽ tạo sân chơi bình đẳng, mang lại sự rõ ràng cho các công ty châu Âu và các đối tác của EU. Như vậy, luật cũng sẽ bổ sung cho các sáng kiến ​​về Thỏa thuận xanh châu Âu và Cổng thông tin toàn cầu. 

Các tiêu chuẩn và cơ chế tự nguyện về Luật HRDD tương đối không hiệu quả vì chúng làm suy yếu động cơ thúc đẩy hành vi có trách nhiệm của doanh nghiệp. Đây là lý do tại sao động lực thúc đẩy các luật HRDD bắt buộc đang có đà phát triển. Các quốc gia châu Âu như: Pháp, Đức , Hà Lan và Na Uy đã thông qua luật trong khu vực. Ba quốc gia đầu tiên chiếm hơn 49% GNI của EU. Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Ireland, Ý, Luxembourg, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh đang tranh luận về các luật đó hoặc đang chờ luật HRDD của Châu Âu.

Cũng như nhiều sáng kiến ​​chính sách của EU, Luật HRDD sẽ có tác động đáng kể vượt ra ngoài biên giới của liên minh này. Bất kỳ công ty đa quốc gia châu Âu hoặc công ty nào khác hoạt động trong một thị trường duy nhất sẽ cần phải tham gia vào các hoạt động có trách nhiệm và đạo đức trong toàn bộ chuỗi cung ứng của mình. Theo đó, EU sẽ tận dụng sức mạnh thị trường của mình và đảm nhận vai trò lãnh đạo pháp lý để thúc đẩy các giá trị của mình trên thế giới. Vì luật HRDD cũng sẽ ảnh hưởng đến các mối quan hệ thương mại, nên luật này sẽ được đưa vào đánh giá phát triển bền vững và thương mại đang diễn ra [2].

Đối với các đối tác của EU, đây sẽ là một cơ chế mạnh mẽ để tăng cường tác động tích cực trong hoạt động kinh doanh của các công ty đa quốc gia và hạn chế những tác động tiêu cực. Nó sẽ giúp đảm bảo rằng các hoạt động của công ty phù hợp với các mục tiêu phát triển của EU về quản trị tốt và chống tham nhũng. Các nước đang phát triển từ lâu đã thúc đẩy các cơ chế kiềm chế và quản lý các công ty đa quốc gia trên các diễn đàn toàn cầu.

Một số công ty châu Âu đã bày tỏ lo ngại về tác động của Luật HRDD đối với khả năng cạnh tranh của họ. Thật vậy, có thể có một số chi phí ngắn hạn cho các công ty này, đặc biệt là những công ty không tham gia vào các tiêu chuẩn và cải cách tự nguyện. Tuy nhiên, các công ty nên xem chi phí của Luật HRDD không phải là gánh nặng mà là một khoản đầu tư. Các thông lệ công bằng xuất hiện từ cải cách dài hạn, bền vững và toàn diện có nghĩa là các công ty có thể tiết kiệm và thậm chí phát triển các mô hình tạo giá trị mới, nâng cao giấy phép xã hội của họ để hoạt động [3].

Nếu Luật HRDD thành công, Ủy ban Châu Âu sẽ cần trao đổi rõ ràng với các công ty Châu Âu cũng như các quốc gia và tổ chức đối tác về vấn đề này. Điều này sẽ yêu cầu sự phối hợp giữa các tổng cục trưởng về thương mại và công lý và người tiêu dùng, cũng như dịch vụ hành động đối ngoại châu Âu. Họ nên cùng nhau tiếp cận với các bên liên quan như ngoại giao, kinh doanh, tài chính, công nghiệp và xã hội dân sự. Họ nên trao đổi với các bên liên quan này về luật và ý nghĩa của luật đối với các khoản đầu tư hiện tại và tương lai cũng như các hoạt động khác, đồng thời nên cung cấp các dịch vụ tư vấn để thúc đẩy việc tuân thủ luật.

Nếu EU không làm như vậy, sáng kiến ​​đầy hứa hẹn này có thể được hiểu rộng rãi như một sự áp đặt: một ví dụ về sự kiêu ngạo và vô cảm của châu Âu làm hạn chế các lựa chọn chính sách của các nước đối tác. Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các công ty châu Âu ở nước ngoài. Ngược lại, một cuộc đối thoại mang tính xây dựng sẽ làm nổi bật những lợi ích của luật HRDD. Cách tiếp cận như vậy sẽ giúp thiết lập một môi trường kinh doanh toàn cầu công bằng và bình đẳng hơn. Thật vậy, Luật HRDD sẽ mang lại cho EU cơ hội tạo khuôn mẫu cho sự phát triển bền vững trên toàn thế giới.

Việc đưa ra Luật HRDD bắt buộc trên toàn EU sẽ tạo ra sự nhất quán có lợi cho các đối tác và các công ty châu Âu. Hơn nữa, bình thường hóa và tiêu chuẩn hóa Luật HRDD bên ngoài châu Âu sẽ phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh của EU. Nó sẽ tăng cường trật tự quốc tế dựa trên luật lệ bằng cách thúc đẩy sự cởi mở và công bằng, cũng như hòa bình và ổn định, thông qua việc bảo vệ nhân quyền. Nếu EU truyền đạt cẩn thận những lợi thế này cho tất cả các bên liên quan, thì đây sẽ là một bước tiến quan trọng.

Cơ sở dữ liệu này nhằm mục đích hỗ trợ các quốc gia châu Âu trong nỗ lực phát triển và thiết lập các thỏa thuận để xác nhận các hình thức học tập chính thức và không chính thức. Nó cũng là một công cụ dành cho bất kỳ ai quan tâm đến việc xác thực, giúp họ hiểu rõ hơn về cách thức xác thực được thực hiện ở Châu Âu[4].

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật Liên minh châu Âu về quyền con người

Trong hợp tác quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người, như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày 24/9/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18/12/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày 19/3/1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20/2/1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22/10/2007. Những công ước này đều được luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam cũng tích cực tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ, Australia, Thụy Sỹ và Liên minh châu Âu (EU) nhằm trao đổi quan điểm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, hướng tới nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi quốc gia [5].

Từ năm 2019 đến tháng 01/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua 39 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như: Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Thanh niên năm 2020, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Cư trú năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020,…[6] Thực hiện một số khuyến nghị, các đơn vị đầu mối của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc nghiên cứu sửa đổi Luật Trẻ em, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, nghiên cứu sửa đổi Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, nghiên cứu xây dựng Luật Chuyển đổi giới tính…

Từ thực trạng pháp luật trong nước, đối chiếu với các quy định trong pháp luật của châu Âu có thể gợi mở một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền con người ở Việt Nam như sau:

Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội ở Việt Nam luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá ngay từ cấp cơ sở. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh nhân quyền, âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống phá Việt Nam, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.

Để thực hiện việc này, cần đẩy mạnh việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để có hiểu biết sâu sắc về quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, từ đó nhận diện các luận điểm chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động. Đồng thời, tích cực học tập, quán triệt Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực; chủ động nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên môn, tạo dựng cho bản thân nền tảng tri thức chính trị - xã hội đúng đắn, khoa học, cách mạng, đủ trình độ đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động trên mạng xã hội.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên cơ sở pháp luật. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã thực hiện. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong bảo đảm quyền con người, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng can thiệp nội bộ.

Cần bám sát, phục vụ triển khai các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức thông tin, đa dạng hóa phương thức hoạt động thông tin đối ngoại, thực hiện tốt phương châm “Chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp từng đối tượng”; huy động mọi khả năng, mọi phương tiện, mọi hình thức để tham gia công tác tuyên truyền; tăng cường đầu tư nguồn nhân lực và tài chính cho công tác tuyên truyền; hiện đại hóa phương tiện, áp dụng những thành tựu mới của công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả.

Bốn là, chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng triệt để ưu thế nổi trội của các trang mạng xã hội có lượng lớn người sử dụng như Facebook, Zalo, Tiktok, Youtube… biến thành công cụ đắc lực thực hiện âm mưu chống phá. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ sở pháp luật; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực nhân quyền[7].

3. Kết luận

Thế giới đang thay đổi nhanh chóng và những thách thức mới đang nảy sinh. Liên minh châu Âu sẽ không bao giờ từ bỏ cam kết bảo vệ và ủng hộ nhân quyền và dân chủ, hơn nữa là trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Mục tiêu pháp luật của châu Âu về quyền con người: Bảo vệ và trao quyền cho các cá nhân; xây dựng các xã hội tự cường, toàn diện và dân chủ; thúc đẩy một hệ thống toàn cầu về nhân quyền và dân chủ; khai thác các cơ hội và giải quyết các thách thức do công nghệ mới đặt ra[8].

Thông qua đó, châu Âu đã đề ra nhiều hoạt động như: Giữ tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp quyền là trọng tâm của ứng phó với đại dịch và hỗ trợ phục hồi toàn cầu; làm việc hướng tới việc bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới; hỗ trợ và bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền và đại diện hợp pháp của họ, đồng thời giải quyết tác động của công việc của họ đối với gia đình họ; chống lại các luật, chính sách và thông lệ phân biệt đối xử, bao gồm cả việc hình sự hóa quan hệ đồng giới; phát triển các công cụ để phát hiện và ứng phó với các dấu hiệu sớm của việc đóng cửa không gian dân sự và sự suy thoái dân chủ, bao gồm việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và các biện pháp chống khủng bố; hỗ trợ phát triển hệ thống tư pháp thân thiện với trẻ em cho tất cả trẻ em; thiết lập một chế độ trừng phạt nhân quyền toàn cầu theo chiều ngang mới để giải quyết các vi phạm và lạm dụng nhân quyền nghiêm trọng; tinh chỉnh phương pháp quan sát bầu cử để theo dõi và đánh giá việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ kỹ thuật số khác trong các chiến dịch bầu cử; thúc đẩy khả năng tiếp cận công nghệ cho người khuyết tật.

Thêm vào đó, châu Âu thường chú trọng đến một số điều để cải thiện quyền con người như: ​​Mối liên hệ giữa những thách thức môi trường toàn cầu và quyền con người; bằng cách dẫn đầu các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, EU cũng thúc đẩy một loạt các quyền: Đối với sức khỏe, thực phẩm, nước, giáo dục và thậm chí cả cuộc sống; tận dụng lợi ích của công nghệ số và giảm thiểu rủi ro; đẩy mạnh các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; nhấn mạnh hơn vào dân chủ, bao gồm cả việc lạm dụng công nghệ trực tuyến và thu hẹp không gian dân sự và chính trị; tập trung mạnh mẽ hơn vào những người bảo vệ nhân quyền và tăng cường các phương tiện để bảo vệ và trao quyền cho họ; tham gia với khu vực kinh doanh trong việc bảo vệ nhân quyền.

Để Việt Nam áp dụng được các quy định pháp luật quốc tế về Quyền con người còn cần trải qua nhiều nỗ lực, trong đó có một số gợi mở như:

Một là, đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.

Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, quyền con người; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

ThS. Cao Nguyên Hùng

Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam

Ngày đăng: 05/09/2023 10:51

Nguồn: